Linh thú Hình tượng động vật trong văn hóa

Tượng một linh thú ở Đền Changu NarayanĐiêu khắc về con sa giông (Salamander) ở châu Âu có dạng con thú bốn chân

Linh vật (những con vật linh thiêng) là những con vật huyền thoại hoặc có thật được linh hóa, được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng và niềm tin tâm linh, tôn giáo. Linh vật thường được mô tả trong thần thoại, truyền thuyết và được biểu đạt trong nghệ thuật tạo hình. Người xưa tin rằng, linh vật là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc mang những đặc tính huyền bí, năng lực siêu nhiên có thể chi phối nhân sinh, vũ trụ nên thông qua linh vật, con người gửi gắm vào đó ước vọng, niềm tin, linh vật mang trong mình sức mạnh tổng hòa của nhiều con vật hội tụ lại với nhau một cách đặc sắc. Trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi linh vật vừa thể hiện bản sắc, truyền thống văn hóa chung của dân tộc vừa mang những đặc điểm, phong cách nghệ thuật đặc trưng riêng của mỗi thời kỳ lịch sử[18].

Trên cờ Lungta/rlung-rta (cờ cầu nguyện ở Tây Tạng) thường có sự hiện diện của bốn linh vật ở mỗi góc, được gọi là Tứ linh (Shambhala Terma) có vai trò bảo hộ nguồn năng lượng gia trì của chư Phật và Bồ Tát từ bốn phương, những linh vật huyền thoại này nêu biểu cho phẩm hạnh của chư Bồ Tát trên con đường giác ngộ như sức mạnh, sự hộ trì, quan kiến thanh tịnh, niềm kiêu hãnh kim cương và đại hỷ lạc, chúng bao gồm là Sư tử (seng) là con Sư Tử Tuyết trắng trụ ở phương Đông, Hổ (tak) là con Hổ vàng trụ ở phương Tây, Rồng (druk) là con Rồng Xanh trụ ở phương Nam và Garuda là Mệnh lệnh điểu (kyung) trụ ở phương Bắc[19]. Trong số tứ linh Tây Tạng thì đã có hai loài là linh thú (sư tử và hổ).

Những linh vật cơ bản của Việt Nam là các sinh vật long (rồng), lân (sư tử), quy (rùa), phượng, và ngoài các linh vật nêu trên, văn hóa Việt Nam còn hay để cập đến một số linh vật khác như hổ, voi, hươu, ngựa, cá chép, khỉ. Trải qua nhiều thời kì, giai đoạn lịch sử, văn hóa Việt Nam có giao thoa, học tập nhiều nét từ văn hóa nước ngoài song về cơ bản, linh vật của Việt Nam luôn giữ nét hiền hòa, cân bằng tạo cảm giác yên bình chứ không có tính chất áp chế, đe dọa như linh vật nước ngoài[20] như linh vật Sấu còn gọi là “Sóc” hoặc “Sấu nghê sóc” xuất hiện bắt đầu từ thời Lý tới thời Lê Trung Hưng, con Sấu có đầu Sư tử, đuôi sóc là linh vật thân thiện có ý nghĩa biểu tượng, thường được thể hiện trên mặt dốc thành bậc trước cửa chùa, tháp hoặc lăng mộ, đây cũng là linh vật độc đáo của nghệ thuật Việt Nam.

Ở những chốn tâm linh như đình, chùa, miếu mạo, lăng tẩm, nơi thờ tự có những đồ án trang trí với nhiều hình thù độc đáo, nổi bật nổi bật là hình các linh vật quen thuộc gồm nhóm Tứ linh gồm: Long (rồng), Lân, Quy (rùa), Phượng và thêm bốn con vật khác là Ngư (cá chép), Bức (con dơi), HạcHổ (cọp), được gọi chung là "Bát vật", được thể hiện qua nghệ thuật trang trí sinh động và linh thiêng[21] Nếu như trong dân gian long (rồng) thường hay liên quan đến mây, mưa, sinh sôi nảy nở, mùa màng tốt tươi thì với vương triều phong kiến, rồng thường hay gắn với uy quyền của nhà vua. Phượng và lân là các linh vật thường gắn với tầng trời, là hiện thân của các bậc thánh nhân, người tài trí, phượng còn được gắn với hình ảnh của hoàng hậu trong các triều đình phong kiến (mắt hình giọt lệ, đuôi công). Con lân trong văn hóa người Việt còn có nhiều tên gọi khác như nghê, sấu, cù. Con rùa là vật dưới đất, thường hay đội hạc nhằm tạo nên thế âm dương đối đãi[22].

Trong chức năng của các loài linh vật, nếu như rồng là đệ nhất gắn với vương quyền thiên tử, phượng gắn với mẫu nghi thiên hạ và hai linh vật này nếu như có nằm trong đồ án “chầu” cũng chỉ chầu những thiên tượng “lưỡng long chầu nhật/nguyệt”, “phượng chầu mặt nguyệt” và xuất hiện ở những vị trí cao nhất (như bờ nóc, mái nhà). Trong khi rùa gắn với chức năng mang vác, đội, đỡ thì nghê gắn với chức năng “chầu rìa”. Vai trò “chầu” của nghê đã được dân gian tổng kết: “làm phượng thì múa làm nghê thì chầu” hoặc “mỗi người đều có một nghề/con phượng thì múa, con nghê thì chầu” hay ngắn gọn hơn là thành ngữ “phượng múa nghê chầu”, “nghê chầu chó chực”. Bài ca dao ở Thanh Hoa nói tới con nghê trong các công trình kiến trúc (cửa, nhà, cầu, quán) cũng làm nhiệm vụ “chầu”: “Bốn cửa anh chạm bốn nghê/Bốn con nghê đực chầu về tổ tông”[23]. Trong bộ Tứ linh có con rồng (Long) là vua của loài có vảy, con Lân là vua của loài có lông mao, con Phượng mà hậu của loài có lông vũ[24].

Kỳ lân

Bài chi tiết: Tứ linh
Tượng Kỳ lân ở Tứ XuyênTượng con Kỳ lân Trung Hoa trong ngôi chùa ở Đài LoanKỳ lân tại điện Thái Hòa trong Hoàng thành Huế

Kỳ lân phương Đông Kỳ Lân đứng hàng thứ hai trong bộ tứ linh, tượng trưng cho sự bất tử, nhân từ và nhất là cát tường tức điềm lành. Mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo thái bình thịnh trị, có thánh nhân ra đời. Chúng là linh thú báo hiệu điềm lành, là biểu tượng của sự thông thái, trường thọ, sự cao quý và của niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân cũng là biểu tượng của lòng nhân từ và sự trung thành. Kỳ lân là tên ghép, trong đó kỳ là con đực và lân là con cái. Theo các từ điển Trung Hoa, từ đôi kỳ lân chỉ hai con vật (cũng giống như cặp phụng–hoàng), kỳ là con đực và lân là con cái. Ngoài ra, tương truyền, linh vật Long Mã là hóa thân của kỳ lân, là sự kết hợp đặc biệt giữa rồng, kỳ lân và con ngựa.

Kỳ lân bẩm tính rất nhân từ, khi di chuyển nó tránh dẫm lên các loài côn trùng, không làm hư hại các loài cỏ mềm dưới chân. Nó cũng không ăn thịt hay làm hại bất kỳ con vật nào và không bao giờ uống nước bẩn. Về mặt đặc tính tập tính, kỳ lân được xem là loài vật tốt bụng, tốt tính, được mệnh danh là “nhân thú” vì khi bước đi, theo bản năng tự nhiên, con vật cẩn trọng để không dẫm lên bất cứ thảo mộc nào đang xanh tươi hay bất cứ một sinh vật nào, kể cả côn trùng, sâu bọ. Nó cũng không ăn thịt, không uống nước bẩn và không làm hại ai. Với đạo Phật, nó là hiện thân của bát nhã tức là trí tuệ, minh triết, thiêng liêng, trong sáng đẹp đẽ đầy chất huyền linh của sự vận động và tĩnh mịch[25].

Theo truyền thuyết, kỳ lân được miêu tả là một con thú bốn chân, thuộc hàng tứ linh với những quyền năng, hội tụ đặc điểm của một số loài vậy khác, nó là sự kết hợp của các loài, như có đầu nửa rồng nửa thú, mình hươu (thân hình của hươu), đuôi bò, trán sói, vó (móng) của ngựa, sừng nai, tai chó, thân lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rồng, có vẩy cá. Kỳ lân vốn xuất xứ từ hươu nên thoạt đầu, kỳ thủy giống hươu nhưng sau được cách điệu, biến dạng thành đầu rộng, bườm sư tử, đuôi bò, thân phủ vẩy như rồng nhưng dấu vết của hươu vẫn còn ở thân, chân, sừng mềm vì vốn là lộc nhung hươu, chân có hai móng, về sau mới thành năm móng[26].

Có khi giống lân mà thân mọc đầy lông, lúc giống nghê mà thân lại phủ vẩy, đôi khi thân trơn nhẵn, đuôi thì chẳng sư tử cũng chẳng bò, bó lông đuôi vắt vẻo, song song thuôn dài. Ở miền Nam Việt Nam trước đây, dòng gốm Cây Mai cũng thường tạo hình Kỳ lân dưới dạng con thú có râu dài, có một sừng và có hai bông hoa lớn, ý chỉ là loài không ăn thịt, cũng là có nghĩa ca ngợi tính nhân hậu của Kỳ lân. Da kỳ lân có 5 màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu vàng. Con kỳ có một chiếc sừng ở giữa trán, nhưng nói chung kỳ lân thì thường có hai sừng khôi vĩ như sừng hươu.

Tạo hình Kỳ lân ở Việt Nam tuy không hoàn toàn tuân thủ theo nguyên tắc của truyền thuyết nhưng đặc điểm nhận dạng cơ bản là thân của động vật móng guốc, phủ kín vảy cá, sừng của kỳ lân có bọc da, đầu mút thịt đầy đặn, kỳ lân vốn xuất xứ từ hươu nên thoạt kỳ thủy giống hươu, có một (sau thành hai) sừng nhưng mềm vì chỉ là lộc–nhung. Sừng của kỳ lân được coi là biểu tượng để chỉ đức tính hiền lành của con vật. Dù đủ sức gây chiến và đánh nhau nhưng con vật vẫn ước muốn hòa bình, từ lân giác, sừng của lân cái, nghĩa là vũ khí vô hại, muốn gọi ra đức tính bản thiện như thế của con vật[27], có ý kiến cho rằng những con kỳ lân một sừng hay thần thú một sừng có nguyên mẫu từ loài tê giác ở phương Nam[28].

Kỳ lân là vật hiệu của nhà vua, tượng trưng cho mọi mặt đức độ của ông ta. Chỉ những vị quân vương hiền minh mới xứng đáng được trông thấy nó. Khi nhà vua lấy đức mà trị dân, thái bình thịnh trị thì kỳ lân xuất hiện như dưới triều vua Nghiêu, vua Thuấn. Kỳ lân còn biểu hiện cho uy quyền của nhà vua. Kỳ lân còn là linh thú biểu trưng cho thái tử trong mối quan hệ: rồng (nhà vua)-kỳ lân (thái tử)-phượng hoàng (hoàng hậu). Kỳ lân còn gắn với điềm báo thánh nhân xuất hiện, là biểu tượng của sự thông thái, trường thọ, sự cao quý và của niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân còn là con vật tiêu biểu báo điềm lành. Không những thế, nó còn có khả năng phân biệt tà ngay, nhận ra kẻ xảo trá, người lương thiện. Do đó, nó còn giúp nhà vua thi hành công lý bằng cách dùng sừng trừng trị kẻ tội phạm[29].

Trong không gian kiến trúc của người Việt, có khi kỳ lân được bài trí thành từng cặp, đứng chầu trước cung điện của vua, đầu hướng về phía cung điện nhằm biểu hiện lòng trung thành, được bài trí ở trước điện thờ, đền miếu, mặt hướng ra bên ngoài, biểu tượng cho sự tôn nghiêm, kính cẩn. Ở Việt Nam, hình tượng Kỳ Lân xuất hiện phổ biến từ thời Lê sơ, khi Nho giáo phát triển đến đỉnh cao. Trong đời sống dân gian thường có sự lẫn lộn giữa Kỳ Lân và Sư tử, nhiều hình Sư tử cũng gọi là Lân. Những đồ án nghệ thuật phổ biến gắn với kỳ lân chính là hình tượng “Kỳ lân hý cầu”, có thể là “Độc lân hý cầu”, “Song lân”, “Tam lân” (ba con lân cùng vờn–nô đùa, tranh nhau một trái cầu). Kỳ lân được xem là một biến thể của rồng, chủ trì việc làm mưa, kỳ lân hý cầu (trái cầu tượng trưng cho mặt trời) là sự mô phỏng cho hành động chống chọi lại mặt trời và các hiện tượng thiên thực.

Tỳ hưu

Tượng Tỳ hưu bằng đá cẩm thạch với khối đá lớn ở Đà Nẵng Tượng Tỳ hưu phong thủy bằng gốm mạ vàng bày bán với giá thành cao

Tỳ hưu (hay Tì hưu) được coi là thần thú giữ của của người Trung Quốc. Theo quan niệm của người Trung Hoa xưa, thức ăn của Tỳ hưu là vàng, bạc, châu báu, là những loại của quý, do con vật này không có hậu môn nên nó được xem như một loại “thần giữ của” (thông dụng ở Đài Loan, Trung Quốc, và ngày nay ở Việt Nam như là linh vật phong thủy). Tỳ hưu là một linh vật hưu cấu nên biểu hiện của nó cũng mang tính bất nhất. Đặc điểm Tỳ hưu không có hậu môn chính là điểm phân loại quan trọng để phân biệt Tỳ hưu với các linh vật đồng dạng như kỳ lân, nghê, sư tử đá Trung Quốc.

Trong tên gọi của nó thì Tỳ (貔-pí) là một loài mãnh thú, giống như hổ, lông màu trắng tro. Còn hưu (貅-xiu) là một giống mãnh thú theo truyền thuyết là con gấu. Danh từ Tỳ hưu (貔貅) chỉ con gấu trắng (bạch hùng), một giống thú rất mạnh cho nên đời xưa gọi các dũng sỹ là Tỳ hưu[30]. Truyền thuyết khác lại cho rằng Tỳ hưu là một trong những đứa con của rồng (Long sinh cửu tử), chúng có đầu như Kỳ Lân, có sừng, vẩy giống rồng nhưng có thân của loài gấu, trên lưng có cánh.

Khi mới chào đời, tỳ hưu đã mang dị tật là không có hậu môn. Vì thế, nó chỉ sống được vài ngày là qua đời. Vì chết từ lúc còn quá nhỏ nên tỳ hưu được Ngọc Hoàng thương tình, cho hóa thân thành linh vật nhà trời, chuyên phò về tài lộc. Ngoài tên gọi Tỳ hưu, chúng còn được gọi bằng các tên khác như Tỳ Ngưu, Tu Lỳ. Tỳ hưu được phân ra hai loại. Loại một sừng là loại cực kỳ hung dữ và nguy hiểm, chuyên đi cắn hút tinh huyết của yêu quái, ma quỷ nên còn được gọi là con Tịch Tà. Loại Tỳ hưu hai sừng thì chỉ hút châu báu, vàng bạc trong trời đất nên chúng được cho là con vật giữ tài lộc. Tỳ hưu hai sừng có các đặc điểm như miệng to, ngực to, mông to.

Truyền thuyết về loài linh vật thần thú không có hậu môn có nhiều dị bản, trong đó có thuyết kể rằng vào thời vua Chu Nguyên Chương mới lập nghiệp, ngân khố còn trống rỗng, Vua mơ thấy một con vật trông như con lân, nhưng có mình và chân to, mông to, trên đầu có sừng, con vật này xuất hiện và nuốt tất cả những ngọc ngà, châu báu trong hoàng cung. Tỉnh dậy, vua cho mời thầy phong thủy và được biết con vật xuất hiện này có tính ham ăn nhưng chỉ chọn vàng, bạc, châu báu, nó lai không có hậu môn nên ăn được bao nhiêu cũng không thể đưa ra ngoài. Sau này, lúc nhà Thanh cai trị cũng tin vào sự linh thiêng của linh vật này và đặt tên nó là Tỳ hưu, vì con Tỳ hưu quay miệng ra Sơn Hải quan nên người Mãn đánh mãi không được, khi người Mãn Châu xui vua Sùng Trinh quay đầu Tỳ Hưu về Nam thì Sơn Hải quan mới vỡ trận, nên nhà Thanh cũng sùng kính con Tỳ Hưu đó, bắt dân gian không ai được giữ Tỳ Hưu.

Tín ngưỡng Tỳ hưu được du nhập vào văn hóa Việt Nam ít nhiều trong giai đoạn phong kiến và bùng nổ trong giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam từ sau giai đoạn sau này thời hội nhập. Tỳ hưu phong thủy được chế tác thành nhiều loại muôn hình muôn vẻ, từ tỳ hưu ngọc, đá quý đến tỳ hưu đá bán quý, tỳ hưu trang sức, tỳ hưu bằng bột đá, tỳ hưu bằng đồng, tỳ hưu Bắc Kinh với giá thành cao. Không chỉ mua làm trang sức phong thủy, người dân còn dùng để bày biện trong nhà, bày ở công ty với mục đích thu hút tài lộc, nhưng có ý kiến phân tích rằng chính con vật không có hậu môn này lại là một sự phá hoại đối với nền kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay vì cái sự vung tiền mua về những lợi ích không rõ ràng[31].

Ở mức độ thông thường, việc sử dụng Tì hưu là một thú chơi, một sở thích cá nhân của người chơi, nhưng cần có sự hiểu biết về những bức tượng trang trí này để không biến thành miếng mồi cho kẻ khác trục lợi. Việc tiêu tốn một số tiền lớn cho một loại sản phẩm phi thẩm định như Tì hưu và các linh vật phong thủy hiện nay là một sự phá hoại đối với nền kinh tế của Việt Nam, số tiền để mua linh vật cầu may như Cóc ba chân (蟾蜍,/Kim Thiềm), Tì Hưu phong thủy, Sư tử ngoại lai dường như bị xâm lăng văn hóa và các linh vật phong thủy như Tỳ Hưu, đặc biệt là Tỳ Hưu ngọc phỉ thúy đã du nhập vào Việt Nam thì những linh vật ngoại lai này có sức tiêu tốn tiền bạc lớn hơn nhiều, chúng không chỉ tác động về mặt văn hóa làm méo mó thẩm mỹ truyền thống và tri thức mà còn góp phần tàn phá nền kinh tế nội địa non kém của Việt Nam[32].

Con nghê

Tượng gốm về con nghê gác lăng, một cặp Nghê mẹ và nghê con

Nghêlinh thú do người Việt sáng tạo ra, là linh vật thuần Việt, phản ánh rõ nét nhân sinh quan, mỹ cảm của người Việt trong việc tiếp thu và biến đổi các yếu tố văn hóa du nhập trên cơ tầng văn hóa bản địa. Nghê là hóa thân của con chó, nếu con chó là vật canh giữ của cải, nhà cửa cho người dân, thì nghê là con vật canh giữ về mặt tinh thần, chống lại các thứ tà ma, ác quỷ. Những con chó đá đã được người Việt linh hiển hóa bằng cách khắc đẽo, thêm thắt những chi tiết trang trí, khiến nó trở nên oai vệ, trang nghiêm và được gọi là con nghê, linh vật bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Ý nghĩa của Nghê chầu chó chực nghĩa là nghê có chức năng là chầu, quay mặt hướng vào nơi được thờ còn chó có chức năng là chực, quay mặt ra phía ngoài đón khách.

Từ chữ “nghê” (猊) chính là xuất phát ở chữ “Toan Nghê” (狻猊) nghĩa là sư tử Trung Quốc nên con nghê xuất xứ từ con sư tử. Trong chữ “Nghê” có bộ khuyển (犭) nghĩa là con chó do đó, con nghê là sự kết hợp của sư tử và con chó, tuy nhiên phần chó nhiều hơn. Mượn hình ảnh con sư tử của người Hoa nhưng người Việt lại có sự phù hợp với văn hóa. Nghê là tên gọi tắt của Toan Nghê một trong chín đứa con của rồng. Theo thư tịch cổ Trung Hoa, nhận dạng của lânnghê khá tách bạch, nghê có dạng sư tử thu nhỏ là bờm xoắn mà không có sừng, thân phủ lông chứ không vẩy, đuôi chùm xòe ra từng lọn, bàn chân nhiều móng phủ lông. Cao tăng Huệ Lâm đời Đường cho rằng Toan nghê tức là sư tử, đến từ Tây vực.

Từ điển Thiều Chửu cũng cho rằng “toan nghê” tức là con sư tử. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của định nghĩa: Nghê (猊) là “loại thú giống sư tử” và “tại sông Đồng Nai có gộp đá lớn giống hình con trâu, người ở đó gọi là con nghê”. Mặt con nghê có nét giống sư tử, trong một số trường hợp, minh văn lại khẳng định danh tính linh vật là sư tử như trên linh vật ở chùa Nành có chữ sư tử trên lưng hoặc cặp sư tử ở đền Gióng. Khác với kỳ lân, con nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng chó, đuôi dài. Nghê không chỉ xuất hiện ở các làng quê Bắc Bộ mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình Huế. Khác với hình tượng các con nghê ở Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, mang tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở chân và sống lưng.

Biểu tượng con chó trong nghệ thuật dân gian của người Việt vốn giản dị và có phần thấp kém hơn về địa vị nếu so sánh với các linh vật khác như kỳ lân, rồng nên khi văn hóa Khổng–Nho từ Trung Hoa ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam thì con vật canh cửa giản dị đó cần được phải tương xứng với những vai trò và vị trí mới nên các nghệ nhân dân gian xưa đã thêm vào nhiều đặc tính để cho sang trọng những linh vật canh cửa. Nên vậy, khuôn mặt nghê hiện ra lúc thì trầm lắng, trang nghiêm, lúc thì nghênh nghênh, hớ hênh phóng túng, miệng ngoác ra cười đến tận mang tai, cung cách bông lơn như những chú cún, bộ dạng dung tục đến hồn nhiên vẻ như bất chấp lễ giáo và khuôn phép của những gã nghê được đục đẽo, tô đắp một cách hả hê, làm náo nức các mảng chạm, bất kể đó là ở đình, ở chùa hay lăng tẩm, đền miếu, hiếm có linh vật nào có thần thái sinh động như nghê[33]. Con nghê được hình tượng hóa từ trâu và chó, hai con vật gắn với nếp sống và lao động của người Việt, con nghê thời Nguyễn là tổng hợp của sư tử thời Lý-Trần-Lê, giữa Phật giáo và Nho giáo[34].

Chó đá và nghê đá
Tượng chó đá ở thế kỷ XVII
Tượng nghê đá tại Đền Đinh Tiên Hoàng
So sánh hình tượng chó đá và nghê đá có thể thấy nét tương đồng

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hình tượng động vật trong văn hóa http://m.doisongphapluat.com/to-quoc-xanh/kham-pha... http://www.myanmars.net/myanmar/myanmar-flag-emble... http://baodansinh.vn/ga-trong-doi-song-van-hoa-vie... http://baophapluat.vn/truyen-hinh-giai-tri/con-vat... http://baobinhthuan.com.vn/van-hoa/hinh-tuong-con-... http://baoninhthuan.com.vn/news/20072p0c67/con-ron... http://dantri.com.vn/xa-hoi/them-mot-suoi-ca-than-... http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/29-nhi... http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhu... http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/kh...